5/11/13

ĐÀ NẴNG –NGŨ HÀNH SƠN – PHỐ CỖ HỘI AN, QUÃNG NAM (Bài 128)

Có đi mới thấy, mới tin rằng những điều hiểu biết của mình qua  sự tưởng tượng thiệt là quá sai lạc. Nguyên trước đây, mỗi khi có ai đó đi Đà Nẵng, các bạn tôi thường nhờ  mua giùm cối đá ở Ngũ Hành Sơn vì vậy tôi cứ đinh ninh trong bụng là ở vùng núi này người dân chỉ biết sản xuất những dụng cụ thô sơ bằng đá xanh. Thiệt là một sự lầm lẫn tai hại, tôi đã chứng kiến bằng đôi mắt ngạc nhiên những tác phẩm điêu khác tuyệt vời trên nhiều loại đá cẩm thạch đủ màu sắc lạ lùng làm tôi thật sự say mê. Mời các bạn xem đoạn videoclip dưới đây thì rõ. 


Ngũ Hành Sơn hay núi Non Nước là tên chung của một danh thắng gồm 6 ngọn núi đá vôi nhô lên trên một bãi cát ven biển, trên một diện tích khoảng 2 km2, gồm: Kim Sơn, Mộc Sơn, Thủy Sơn (lớn, cao và đẹp nhất), Hỏa Sơn (có hai ngọn) và Thổ Sơn, nằm cách trung tâm thành phố Đà Nẵng khoảng 8 km về phía Đông Nam, ngay trên tuyến đường Đà Nẵng - Hội An; nay thuộc phường Hòa Hải, quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng, Việt Nam.
Ngoài ra, Ngũ Hành Sơn còn có các tên khác như: Ngũ Uẩn Sơn, Ngũ Chỉ Sơn,…”Wikipedia”

Chùa Linh Ứng NgũHành Sơn thuộc hệ phái Bắc tông, nằm trong quần thể danh thắng Ngũ Hành Sơn… tọa lạc trên một khu đất rộng, bằng phẳng phía đông hòn Thủy Sơn thuộc quần thể khu di tích danh thắng Ngũ Hành Sơn, bên phải là Vọng Hải Đài, bên trái là hang Ngũ Cốc.
Dưới thời vua Lê Hiển Tông (1740 – 1780) có vị hòa thượng Quang Chánh, hiệu Bảo Đài đến tu hành tại động Tàng Chân, lúc đầu dựng am Dưỡng Chân, sau sửa chữa lại gọi là Dưỡng Chân đường. Vào đời Gia Long, chùa được xây và đặt tên Ứng Chân, năm Minh Mạng thứ 6 được xây thêm. Đến năm 1841, vua Thành Thái cho đổi tên là Linh Ứng tự. Hiện trong chùa Linh Ứng Ngũ Hành Sơn vẫn còn lưu giữ 2 hiện vật quý hiếm: hai biển vàng – một biển đề “Ngự chế Ứng Chân tự Minh Mạng lục niên” (phong Quốc tự năm Minh Mạng thứ 6) và một biển đề “Cải Tử” nghĩa là đổi lại thành Linh Ứng tự dưới triều Thành Thái thứ 3.


Làng đá Non Nước ĐàNẵng có từ rất lâu, theo các nghệ  nhân cao tuổi ở Làng đá Non Nước, nghề chế tác đá mỹ nghệ Non Nước có cách đây gần 200 năm. Làng được hình thành vào cuối thế kỷ XVIII, do nghệ nhân người Thanh Hóa  tên là Huỳnh Bá Quát khởi xướng. Sang thế kỷ XIX, nghề chế tác đá trở thành nghề chính nuôi sống những người dân địa phương. Ngày nay, làng đá Non Nước tọa lạc dưới chân núi Ngũ Hành Sơn... “Webdanang.com”
Tác phẩm nghệ thuật bằng đá nơi đây đã có mặt ở nhiều nước Âu, Mỹ. Để làm nên những sản phẩm mỹ nghệ khá phong phú và đa dạng bằng đá cẩm thạch như: Tượng Phật, tượng thánh, tượng người, tượng muông thú, vòng đá đeo tay…, người thợ thủ công phải trải qua nhiều công đoạn chạm trổ công phu, tỉ mỉ. Nguyên liệu để làm nên các sản phẩm này là đá cẩm thạch, trước đây được khai thác ở núi Ngũ Hành Sơn.
Đá núi Ngũ Hành Sơn có nhiều vân ngũ sắc, mang vẻ đẹp cao sang, là mặt hàng được ưa chuộng trong xây dựng và kiến trúc. Nhưng hiện nay, do nhu cầu thị hiếu thẩm mỹ ngày càng cao, các cơ sở điêu khắc đá phải nhập khẩu nhiều loại đá có chất lượng cao của nhiều nước như Ấn Độ, Mi-an-ma, các nước Trung Đông về để chế tác theo yêu cầu của khách hàng. “damynghe247.com”

Phố cổ Hội An là một đô thị cổ nằm ở hạ lưu sông Thu Bồn, thuộc vùng đồng bằng ven biển tỉnh Quảng Nam, Việt Nam, cách thành phố Đà Nẵng khoảng 30 km về phía Nam. Nhờ những yếu tố địa lý và khí hậu thuận lợi, Hội An từng là một thương cảng quốc tế sầm uất, nơi gặp gỡ của những thuyền buôn Nhật Bản, Trung Quốc và phương Tây trong suốt thế kỷ 17 và 18. Trước thời kỳ này, nơi đây cũng từng có những dấu tích của thương cảng Chăm Pa hay được nhắc đến cùng con đường tơ lụa trên biển. Thế kỷ 19, do giao thông đường thủy ở đây không còn thuận tiện, cảng thị Hội An dần suy thoái, nhường chỗ cho Đà Nẵng khi đó đang được người Pháp xây dựng. Hội An may mắn không bị tàn phá trong hai cuộc chiến tranh và tránh được quá trình đô thị hóa ồ ạt cuối thế kỷ 20. Bắt đầu từ thập niên 1980, những giá trị kiến trúc và văn hóa của phố cổ Hội An dần được giới học giả và cả du khách chú ý, khiến nơi đây trở thành một trong những điểm du lịch hấp dẫn của Việt Nam.
Đô thị cổ Hội An ngày nay là một điển hình đặc biệt về cảng thị truyền thống ở Đông Nam Á được bảo tồn nguyên vẹn và chu đáo. Phần lớn những ngôi nhà ở đây là những kiến trúc truyền thống có niên đại từ thế kỷ 17 đến thế kỷ 19, phần bố dọc theo những trục phố nhỏ hẹp. Nằm xen kẽ giữa các ngôi nhà phố, những công trình kiến trúc tôn giáo, tín ngưỡng minh chứng cho quá trình hình thành, phát triển và cả suy tàn của đô thị. Hội An cũng là vùng đất ghi nhiều dấu ấn của sự pha trộn, giao thoa văn hóa. Các hội quán, đền miếu mang dấu tích của người Hoa nằm bên những ngôi nhà phố truyền thống của người Việt và những ngôi nhà mang phong cách kiến trúc Pháp. Bên cạnh những giá trị văn hóa qua các công trình kiến trúc, Hội An còn lưu giữ một nền văn hóa phi vật thể đa dạng và phong phú. Cuộc sống thường nhật của cư dân phố cổ với những phong tục tập quán, sinh hoạt tín ngưỡng, nghệ thuật dân gian, lễ hội văn hóa vẫn đang được bảo tồn và phát triển. Hội An được xem như một bảo tàng sống về kiến trúc và lối sống đô thị.
Với những giá trị nổi bật, tại kỳ họp lần thứ 23 cuối năm 1999 (ngày 4 tháng 12 năm 1999), Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hiệp Quốc (UNESCO) đã công nhận đô thị cổ Hội An là một di sản văn hóa thế giới.. “Wikipedia”

Món ăn đặc sản của Đà Nẵng: 
BÚN CHẢ CÁ
Nhờ em Bình, mà chúng tôi biết thưởng thức thêm một món ăn “tuyệt chiêu” của Đà Nẵng, đó là món bún chả cá ngon không chê được. Tôi không chú ý tới những phần râu ria như hành lá, cà tô mát hay tất cả những gì trang trí chung quanh tô bún, vì mấy miếng chả cá hấp vuông vức và chả cá chiên tròn dẹp óng ánh vàng làm tôi chú ý đặc biệt. Theo thói quen ăn các món có nước, tôi bắt đầu nếm thử nước lèo, “ôi chà!” nước lèo ngọt dịu làm cổ họng tôi như muốn ngưng hoạt động để lắng động hương vị đậm đà của món ăn khoái khẩu lần đầu tiên trong đời. Mấy miếng chả hấp mềm xốp, mấy miếng chả chiên dẻo bùi pha lẫn mùi cá mùi gia vị, ôi sao mà nó ngon thiệt là ngon. Một đặc điểm là các món ăn ở đây không thấy nêm bột ngọt quá trớn như ở những vùng khác. Bún chả cá ăn một lần là phát ghiền.
LẪU BÒ.

Đứa em chúng tôi, được người bạn gốc người Đà Nẵng từ Saigon gọi ra, bảo “nhớ đừng quên thưởng thức món bò Đà Nẵng đó nghen!” Thôi thì ông ấy kể ra không biết bao nhiêu là món bò; bê thui, chả bò, lẫu bò… Tôi nghe thấy cũng lạ “Sao vùng này, người địa phương lại thích thịt bò và đã sáng chế ra quá nhiều món ăn “bò” như vậy? cũng đồng nghĩa nơi đây dân chúng nuôi được rất nhiều bò cho thịt ngon lắm sao? Một buổi trưa, chúng tôi nhờ em tài xề tìm cho một quán chuyên bán món ăn bò, đến nơi, dường như chỉ có chúng tôi là những thực khách mở hàng sớm nhứt, các cô chiêu đãi còn đâu đó chưa chuẩn bị buôn bán. Em tôi gọi 2 cái lẫu và không quên nói “tiếng lóng” về những phần đặc biệt của con bò, các cô gặng hỏi, rồi cũng ra dấu đồng ý “hiểu rõ” rồi. Mấy cái nồi lẫu bưng lên để trên các cái lò lửa, sôi ùng ục. Trưa, trời nóng ngồi gần lò lửa mồ hôi bắt đầu rịn ra áo, nhưng ăn lẫu bò chắm bánh mì, món lạ ghê, ăn rất ngon vì buổi trưa đang đói bụng, không phân biệt được miếng thịt đang ăn là phần nào trong cơ thể con bò, vì miếng nào miếng nấy nhượm màu xám xịt như nấu với thuốc bắc, cũng là một món “ẩm thực” có tiếng của Đà Nẵng mà. 

Không có nhận xét nào: