25/11/11

TAM LANG – MỘT THỜI VANG BÓNG. (Bài 099)

Qua hai bài báo; một  của SĨ HUYÊN đăng trên VIỆT BÁO “PHẠM HUỲNH TAM LANG – KÝ ỨC MỘT THỜI VANG BÓNG” và một của QUỲNH NGA đăng trên báo NGƯỜI VIỆT “TƯỞNG NHỚ NHÀ LƯỠNG THỦ VẠN NĂNG PHẠM VĂN RẠNG” chúng tôi chỉ xin trích ra phần liên hệ đến Tam Lang để đăng lại trên blog này. Bài viết tuy rất ngắn gọn nhưng đã nói lên được khá đầy đủ thành tích và tình cảm của em chúng tôi. Trân trọng cám ơn hai tác giả và xin giới thiệu với gia đình, bè bạn. LN

Thứ ba, 10 Tháng mười 2006, 13:19 GMT+7
PHẠM HUỲNH TAM LANG – KÝ ỨC MỘT THỜI VANG BÓNG.
Trong sự nghiệp cầu thủ, có lẽ ít ai có được hạnh phúc và vinh dự trong nghề nghiệp như người con của vùng đất Gò Công (Tiền Giang) – cựu danh thủ Phạm Huỳnh Tam Lang. Ngoài cúp vô địch Merdeka 1966, ông còn đoạt được nhiều huy chương khác ở SEA Games trong vai trò cầu thủ rồi HLV.

Dẫn dắt đội Cảng Sài Gòn trong vai trò “thuyền trưởng”, ông góp công lớn mang về cho đội bốn chức vô địch (1986, 1993-1994, 1997, 2001, 2002) cùng hai danh hiệu vô địch.

NGÀY HẠNH PHÚC TRÊN ĐẤT KHÁCH
Nhâm nhi ly cà phê cùng chúng tôi sau giờ huấn luyện tại Trung tâm thể thao Thành Long, vị danh thủ lừng lẫy một thời của bóng đá miền Nam trước 1975 như trẻ trung trở lại khi nhắc tới giãi Merdeka 1966. Ông kể: “Năm 1960, khi mới 18 tuổi, tôi được gọi vào đội tuyển miền Nam. Sớm chiếm được vị trí trong đội hình chính thức, nhưng chiếc băng đội trưởng thì chẳng bao giờ tôi nghĩ đến. Đùng một cái, trước giờ bay sang Malaysia, HLV Weigang họp đội và đề nghị bầu chọn đội trưởng mới thay cho tiền vệ Nguyễn Ngọc Thanh. Cũng chẳng biết vì sao ngày ấy anh em lại tín nhiệm và dồn phiếu cho tôi giữ vai thủ quân.

Ngày xưa, Merdeka là một giải đấu danh tiếng, ra đời từ thập niên 1950, luôn qui tụ những đội mạnh nhất của châu Á. Được mời dự giải đã là một danh dự. Chính vì vậy mà khi đoạt chức vô địch, chúng tôi như đắm mình trong hạnh phúc vô bờ trên đất khách quê người. Hai ngày sau lúc trở thành nhà vô địch Merdeka, toàn đội không về nước ngay mà ghé lại Singapore để thi đấu giao hữu một trận với đội tuyển nước này khi họ vừa tách ra khỏi Liên bang Malaysia.

Khi máy bay đáp xuống sân bay Tân Sơn Nhất, cả đội không thể tin vào mắt mình vì sự đón tiếp trọng thể. Mỗi người chúng tôi đứng trên một xe jeep mui trần diễu hành về tòa đô chính (trụ sở UBND TP.HCM ngày nay) để ra mắt hàng ngàn khán giã đang chờ đợi. Để ghi nhận công sức của đội bóng, các mạnh thường quân và Tổng Cuộc Túc tặng mỗi cầu thủ một chiếc lắc được làm bằng 5 chỉ vàng ròng. Việc khen thưởng chỉ dừng lại ở đó nhưng để lại trong lòng mỗi cầu thủ chúng tôi những dâu ấn đậm nét”

TIẾNG SÉT ÁI TÌNH
Ba ngày trước lúc đội tuyển bóng đá miền Nam VN dự Cúp Merdeka 1966, toàn đội bỗng nhận được giấy mời xem suất hát của Đoàn cải lương Dạ Lý Hương. Trước giờ kéo màn, đại diện đoàn hát nói vài lời phi lộ và gửi lời cầu chúc đội tuyển “mã đáo thành công”. Cô đào hát nổi tiếng, được khán giả xưng tụng là “cải lương chi bảo” Bạch Tuyết bước ra từ cánh gà sân khấu. Thay cho câu vọng cổ mùi mẩn là bó hoa tươi thắm để trao tận tay thủ quân Phạm Huỳnh Tam Lang. Ngay ở lần chạm mặt ấy, nói như người cựu danh thủ thì: “Tôi như bị cô ấy hớp hồn khi nhận hoa..”.

Ngưng một thoáng vì xúc động bởi chuyện cũ hiện về từ ký ức xa xưa, Tam Lang nói: “Sau giải Merdeka, những cuộc hẹn hò giữa chúng tôi nối dài hơn và kết thúc bằng lễ cưới vào đầu năm 1967. Tiếc là quãng đường của chúng tôi quá ngắn. Do không phù hợp nhau về nhiều mặt nên chúng tôi đành phải nói lời chia tay vào năm 1974. Sau này, cả hai cùng có gia đình riêng rất hạnh phúc. Tôi có một cháu gái (20 tuổi, đang du học ngành y tại Úc) còn Bạch Tuyết được một cháu trai. Hai gia đình luôn xem nhau như những người bạn thân thiết và cũng hay lui tới thăm viếng lẫn nhau mỗi khi có điều kiện”.

“Có một giai thoại cho rằng vì quá ghen tuông với những cảnh mùi mẫn trên sân khấu nên anh xách súng rulô rượt bắn kép hát đóng chung với chị Bạch Tuyết?”. Nghe chúng tôi hỏi, Tam Lang cười ngất rồi nói: “Đúng là khi còn đá cho đội Cảnh Sát của chế độ cũ, tôi được gắn lon trung sĩ và được phát khẩu súng ngắn. Ngay sau đó tôi trả súng lại vì thấy nguy hiểm, đồng thời cũng không muốn giữ súng vì đâu có chi cần thiết để giắt kè kè bên người. Do đó không hề có chuyện tôi xách súng rượt kép hát ngay trên sân khấu như đồn đại đâu. Ngay cả cái lon trung sĩ cũng là chuyện chẳng đặng đừng vào thuở ấy. Lương cầu thủ chẳng được là bao, do vậy ông bầu của đội mới gắn cho tôi thêm lon trung sĩ cảnh sát để có thêm vài đồng lương hằng tháng. Và cũng chính vì cái lon trung sĩ tạm bợ mà tôi phải đi học tập ba ngày sau 30-04-1975…”.

THĂNG TRẦM CỦA MỘT ĐỜI NGƯỜI
Sau ngày 30-04-1975, bóng đá lại cuốn hút Tam Lang trở lại với sân cỏ. Giữ vai trung vệ cho Cảng Saigon được gần 5 năm, ông chính thức nói lời chia tay để chuyển sang nghiệp huấn luyện viên (HLV). Vừa giã từ đôi giày crămbông, ông được ngành TDTT thành phố cử đi tu nghiệp lớp HLV quốc tế tại CHDC Dức. Ngày ấy, cái tin Tam Lang được cử ra nước ngoài học để lấy bằng HLV, mà lại là học ở một đất nước XHCN, đã trở thành đầu đề bàn tán khá lâu dài. Người này thì thắc mắc: “Sao lại cử cầu thủ ‘ngụy’ đi học nghề làm thầy bóng đá?”, người khác lại cho rằng: “Chắc cha Tam Lang này là dân Việt cộng nằm vùng nên chỉ phải đi học tập ngắn ngày, nay lại được chọn cho đi học ở nước ngoài”…

Năm 1981, tức sau hơn một năm tu nghiệp, ông tạm biệt CHDC Đức với tấm bằng HLV loại ưu để quay lại với Cảng Saigon trong cương vị mới – HLV trưởng. Riêng việc được chọn đi học nước ngoài, mãi sau này mới có lời giải đáp thỏa đáng từ chính người trong cuộc: ông được tín nhiệm cử đi học nước ngoài nhờ vào bản lý lịch khá tốt – có cha là liệt sĩ chống Pháp, hi sinh năm 1946.

Nhắc về người cha quá cố, cựu danh thủ lừng lẫy một thời xúc động kể lại: “Số phận của tôi hẩm hiu lắm chứ không đầy rẫy vinh quang như nhiều người lầm tưởng. Tiếng là có cha, nhưng cho tới lúc trưởng thành tôi chẳng hề biết tường tận nét gì đó trên gương mặt của cha ngoài việc cảm nhận về cha mình qua di ảnh còn để lại. Nhưng nỗi đau lớn nhất là cho tới giờ phút này vẫn không hề biết mộ phần của cha nằm nơi đâu! Ông bị địch bắt rồi thủ tiêu ngay trong khám khi tôi vừa lên 4. Cho tới lúc nhắm mắt xuôi tay, mẹ tôi vẫn không nguôi nỗi ray rứt về mộ phần lẫn ngày mất của chồng…”.


Vào lúc làn sóng vượt biên rộ lên, nhiều bè bạn đã rủ rê Tam Lang theo chân họ xuống tàu ra nước ngoài tìm vận hội mới. Thậm chí có người còn dọa rằng: “Ông là dân cảnh sát ngụy, ở lại không được trọng dụng đâu. Chi bằng theo tôi vượt biên đi…”. Ông chỉ lắc đầu. Đơn giản chỉ vì: “Tôi là dân đá banh. Ngoài đá banh ra, đi nước ngoài biết làm gì để sống. Hơn thế, tôi không đành lòng ra đi để lại người mẹ hiền suốt một đời thủy chung thờ chồng, lam lũ kiếm sống để nuôi con khôn lớn…”. Ngồi nhắc lại chuyện xưa, ông cho rằng đó là một quyết định đúng đắn – sự đúng đắn phải đi qua rất nhiều tháng ngày trăn trở, suy tư…

…”Tôi luôn tâm niệm rằng con người từ lúc sinh ra cho tới lúc mất đi thì phải luôn làm việc, luôn cống hiến. Đó không chỉ là ước mơ mà còn là nguồn sống. Với tôi, dù đã qua tuổi lục tuần từ lâu nhưng niềm tin và tình yêu với quả bóng vẫn luôn đong đầy…”

Ở tuổi 63, giọng nói của người cựu danh thủ vẫn còn sang sảng. Ông nói: “Tôi cảm thấy mình có lỗi rất lớn với người ham mộ. Bao thế hệ cầu thủ đã đi qua, nhưng giấc mơ đem tấm Huy Chương Vàng về cho đất nước vẫn không làm được. Thời của tôi và các đàn em không làm được, do vây tôi luôn nung nấu giấc mơ ấy bằng cách gầy dựng những thế hệ cầu thủ trẻ cho bóng đá Thành Long nói riêng và cho TP.HCM nói chung. Biết đâu mai này, trong số những tài năng trẻ ấy có người sẽ làm nên chuyện như lớp cha ông ngày trước…”.

SĨ HUYÊN
Việt Báo (Theo Tuổi Trẻ)


Saturday, November 12,2011 3:05:51PM
ĐỘI TUYỂN VNCH THẮNG ISRAEL TRÊN SÂN TEL AVIV 2-0.

...trận vòng loại Thế Vận Hội năm 1963 giữa đội tuyển quốc gia Israel và Đội tuyển quốc gia Miền Nam Việt Nam. Vòng đi gặp nhau tại sân Cộng Hòa (Thống Nhất) đội tuyển Việt Nam Cộng Hòa thua 1-0. Vòng về làm khách trên sân Tel Aviv, thủ đô của Do Thái. Trận đấu mới khởi sự 15 phút đội tuyển miền Nam Việt Nam đã tung lưới Do Thái hai lần. Do công của trung phong Nguyễn Văn Quang và tả biên Nguyễn Văn Ngôn (Ngôn I) cả hai hiện đang ở Hoa Kỳ (Quang ở Houston, Ngôn I ở Florida). 75 phút còn lại của trận đấu, đội tuyển Do Thái tấn công dồn dập trước vòng cấm địa của tuyển miền Nam Việt Nam buộc hàng hậu thủ Việt Nam với Tam Lang, Hiển… vất vả chống đở. Trong khung thành, thủ môn Phạm Văn Rạng như một con én, tả xung hữu đột cứu nguy hàng chục bàn thua trước khung thành, bảo vệ màng lưới trinh bạch, đem chiến thắng lịch sử cho đội tuyển miền Nam Việt Nam trước Do Thái 2-0.
Phạm Văn Rạng cho rằng theo ông, vào thời điểm này đội tuyển Việt Nam Cộng Hòa được đánh giá là đội mạnh nhất Đông Nam Á.

ĐỘI TUYỂN NGÔI SAO CHÂU Á
…Đến năm 1966, sau khi tuyển Việt Nam Cộng Hòa oanh liệt đoạt giải Merdeka, cầu vương L‎‎ý Huệ Đường của Trung Hoa Quốc Gia trong vai trò HLV của đội tuyển Ngôi Sao Châu Á đã làm danh sách triệu tập tuyển Á Châu, đã điền tên ông Phạm Văn Rạng vào danh sách, cùng một lá thư riêng, bày tỏ sự mến mộ và tha thiết muốn ông có mặt tại thủ đô Kuala Lumpur để tiếp đón hai đội cầu chuyên nghiệp của Anh Quốc là Tottenham và Chelsea.

Sau khi suy nghĩ, ông nhận lời và nhanh chóng trở lại tập luyện để cùng bốn tuyển thủ Việt Nam Cộng Hòa được tuyển là Đổ Thới Vinh, Nguyễn Ngọc Thanh, Nguyễn Văn Ngôn I và Phạm Huỳnh Tam Lang bay sang Malaysia góp mặt trong thành phần tuyển Châu Á.

Trận gặp Tottenham do thủ môn Miến Điện Tienggaumin giữ, kết quả Ngôi Sao Châu Á thua 2-1. Hai ngày sau tiếp đội Chelsea, ông được giao nhiệm vụ chính thức trong khung thành. Và đội tuyển Ngôi Sao Châu Á đã hạ Chelsea 2-1.

Sáng hôm sau đồng loạt các báo chí Malaysia, đã bình luận cho là người có công lớn trong đội tuyển Châu Á chính là thủ môn đến từ Việt Nam, Phạm Văn Rạng…nhưng có một điều báo chí Á Châu không ngờ, người cầu thủ mà họ ca ngợi lại là người mới trở lại sân cỏ sau khi đã treo găng hai năm…

QUỲNH NGA (Báo Người Việt Online)

VÀI SỐ LIỆU TRANH GIẢI THẾ VẬN HỘI, Á VẬN HỘI VÀ SEA GAMES CỦA TUYỂN VNCH

Năm 1963: Vòng loại cho Thế Vận Hội Tokyo 1964
            VNCH – Israel    0-1 (tại Saigon)
            Israel – VNCH    0-2 (tại Tel Aviv)
            ĐạiHàn-VNCH    3-0 (tại Seoul)
            VNCH-ĐạiHàn    2-2 (tại Saigon)

Năm 1968: Vòng loại cho Thế Vận Hội Mexico 1968
            VNCH – Philippines         10-0
            VNCH – ĐàiLoan               3-0
            VNCH – Liban                   1-1
            NhậtBản-VNCH                 1-0
            ĐaịHàn – VNCH                3-0
           
Giải vô địch Châu Á
Lần 1: năm 1956 (tại Hong Kong), VNCH thua Israel và Đại Hàn, không vượt qua vòng loại.
Lần 2: năm 1960 (tại Hàn Quốc), VNCH đứng đầuu bảng ở vòng loại, tại vòng chung kết:
            VNCH – Đại Hàn             1-5
            VNCH – Đài Loan            1-3
            VNCH – Israel                1-5

Á Vận Hội (ASIAD)
Lần 1: năm 1951 (tại New Dehli) VNCH không tham dự
Lần 2: năm 1954 (tại Manila) VNCH không vượt qua vòng loại:
            VNCH – Philippines         3-2
            VNCH – Hong Kong         1-2
Lần 3: năm 1958 (tại Toyo)
            VNCH – Pakistan            1-1
            VNCH – Malyasia            6-1
Lần 4: năm 1962 (tại Jakarta) VNCH đứng thứ 4
            VNCH - Ấn Độ                2-3 (ở trận bán kết)
            VNCH – Malaysia            1-4 (ở trận tranh huy chương đồng)
Lần 5: 1966 (tại Bangkok) VNCH không vượt qua vòng loại.
Lần 6: 1970 (tại Bangkok) VNCH không vượt qua vòng loại.

CÚP MERDEKA
Cúp Merdeka do Malaysia tổ chức, thường mời một số đội mạnh Châu Á nên có giá trị như một giải Châu Á thu nhỏ.
Lần 10, năm 1966, 12 đội tham dự: VNCH đoạt cúp. HLV Karl-Heinz Weigang (Đức)

SEA GAMES
Lần 1: năm 1954 (tại Bangkok), VNCH đoạt huy chương vàng.
            VNCH – Thailand            3-1

Lần 2: 1961 (tại
Rangoon), VNCH đoạt huy chương đồng.
VNCH – Thailand            0-0
VNCH -  Lào                   7-0

Lần 3: 1965 (tại
Kuala Lumpur), VNCH đoạt huy chương đồng
VNCH – Singapore          4-1

Lần 4: năm 1967 (tại
Bangkok), VNCH đoạt huy chương bạc
VNCH – Miến Điện          0-1

Lần 5: năm 1969 (tại Rangoon), VNCH đoạt huy chương đồng
            VNCH hòa
Thailand

Lần 6: năm 1971 (tại
Kuala Lumpur), VNCH đoạt huy chương đồng
VNCH hòa Thailand

Lần 7: năm 1973 (tại Singapore), VNCH đoạt huy chương bạc
            VNCH – Miến Điện          2-3

Không có nhận xét nào: